
NCS-ThS Hồ Minh Châu
Tiểu sử và cuộc đời

Năm sinh và mất: Theo các tư liệu được công bố, Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 và mất năm 1822.
Quê quán và gia đình: Bà quê gốc ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhưng sinh trưởng tại phường Khán Xuân (Hà Nội) là con gái cụ đồ Hồ Phi Diễn, bà được học hành chu đáo, nổi tiếng thông minh, giỏi chữ Hán – Nôm, làm thơ sắc sảo. Mặc dù mang dòng máu xứ Nghệ, Hồ Xuân Hương lớn lên và hoạt động văn học chủ yếu tại Thăng Long.
Gia thế, những cuộc hôn nhân và mối tình
Là con vợ lẽ của một nhà nho họ Hồ (có tài liệu ghi là Hồ Phi Diễn), tuổi thơ thiệt thòi. Các mối tình của Hồ Xuân Hương đều dang dở, chủ yếu rơi vào cảnh “làm lẽ” hoặc góa bụa.
Tình duyên với Chiêu Hổ (Nguyễn Công Trứ?)
Một số học giả cho rằng Chiêu Hổ chính là Nguyễn Công Trứ, nhưng nhiều người khác phản bác vì thời gian không khớp. Dù vậy, hình tượng “Chiêu Hổ” trong thơ gắn với sự dí dỏm, tình tứ, gợi nên chuyện giao tình văn chương, có thể là bóng dáng một mối tình thoáng qua.
Vợ lẽ của Tổng Cóc (tức Tổng Cóc Trần Phúc Hiển?)
Đây là mối tình chính thức đầu tiên được ghi nhận. Hồ Xuân Hương làm vợ lẽ của một vị quan Tổng Cóc, nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc, bà sớm rời bỏ. Nhiều bài thơ như Tự tình phản ánh nỗi đau của người phụ nữ “lấy lẽ” và khát vọng tình yêu trọn vẹn.
Vợ lẽ của Phủ Vĩnh Tường (Phủ Vĩnh Tường – Trần Phúc Hiển hoặc một quan lớn khác)
Một người có thế lực nhưng vị này mất sớm, bà rơi vào cảnh góa bụa, buồn tủi. Nhiều giai thoại kể rằng tình duyên này khiến bà càng thấm thía số phận hẩm hiu của phụ nữ thời phong kiến.
Các giai thoại tình cảm khác
Có truyền thuyết cho rằng bà từng có cảm tình với nhiều tao nhân mặc khách, nhưng không đi đến hôn nhân. Thơ của bà nhiều khi như lời tự sự về khát vọng tình yêu, sự dở dang, nỗi cô đơn, vừa táo bạo vừa day dứt. Những thăng trầm trong cuộc đời và tình duyên: Cuộc đời nữ sĩ gắn liền với nhiều giai thoại về mấy đời chồng, giai nhân tài sắc và những lời đàm tiếu xã hội phong kiến. Những trải nghiệm cá nhân đó hun đúc phong cách thơ đả kích sâu cay nhưng cũng rất trữ tình, thể hiện khát khao độc lập, tự do của người phụ nữ.
Sự nghiệp thơ ca
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là nữ sĩ trào phúng bậc nhất với thể thơ Nôm đường luật, sử dụng điệp ngữ, ẩn dụ và chơi chữ để châm biếm vua quan, tầng lớp thống trị. Đồng thời, bà tỏ rõ tiếng nói nữ quyền, phản ánh thân phận và khát vọng của phụ nữ. Hồ Xuân Hương để lại một số lượng thơ không nhiều, nhưng đặc biệt giá trị với ngôn ngữ Nôm dân dã, đậm tính dân gian và tinh thần phản kháng. Phong cách thơ độc đáo
Các tác phẩm tiêu biểu
“Bánh trôi nước”: Biểu tượng phẩm giá người phụ nữ dù trôi nổi giữa dòng đời.
“Tự tình” (I & II): Tự sự tâm trạng, nỗi niềm lẻ loi và khát khao yêu thương.
“Mời trầu”: Châm biếm phong hóa vô đạo, ca ngợi tấm lòng chung thủy.
Vị trí của Hồ Xuân Hương trong văn học Việt Nam
Bà được nhà thơ Xuân Diệu xếp vào hàng “Bà chúa thơ Nôm”, là cây đại thụ của văn học thế kỷ XVIII–XIX, mở đường cho phong cách thơ trào phúng và tiếng nói nữ quyền trong văn học Việt Nam.
Phụ lục: Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương và phân tích
Bánh trôi nước

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Bà sử dụng hình tượng bánh trôi nước tượng trưng cho thân phận người phụ nữ. Dù bấp bênh, phụ thuộc nhưng vẫn giữ trọn phẩm giá.
Quả mít

Thân em như quả mít trên cây,
Da nó sù sì, múi nó dày.
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
Bà sử dụng ngôn ngữ dân gian táo bạo, gợi cười nhưng cũng phản ánh thái độ chủ động và khát vọng tình yêu của phụ nữ.
Cái quạt

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên em dính dán tự bao giờ.
Mặt dầy mày dạn người ta bảo,
Mỏng mảnh che đầu chẳng thấy thưa.
Bà sử dụng ngôn từ đa nghĩa, vừa tả vật dụng, vừa ẩn dụ thân thể nữ giới, thể hiện lối trào phúng phóng túng.
Đánh đu

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bà miêu tả trò chơi dân gian nhưng ẩn chứa ngôn ngữ gợi cảm, tạo tiếng cười vui nhộn và thách thức quan niệm khắt khe về tình ái.
Tài liệu tham khảo
- Xuân Diệu (1985), *Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm*, NXB Văn Học.
- Trần Thanh Mại (1979), *Hồ Xuân Hương, tác phẩm và giai thoại*, NXB Khoa học xã hội.
- Nguyễn Lộc (chủ biên, 2004), *Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX*, NXB Giáo dục.
- Nhiều tác giả, Tư liệu số hóa Thư viện Quốc gia Việt Nam.