
TS. Hồ Bá Thâm
TS.Hồ Bá Thâm
Đặt vấn đề
Bài này bàn về thời điểm Nguyên tổ Hồ Hưng Dật sang đến Việt Nam. Đây là thời điểm quan trọng vì nó ảnh hưởng tới nhiều sự kiện về sau (ông là Thái thú châu Diễn hay châu Hoan hoặc liên quan đến hậu duệ 10 đời thất phả như thế nào…) cũng như những cống hiến của Cụ. Đã có hội thảo lần thứ nhất được thực hiện do Ban liên lạc HHVN khóa IV tổ chức về Thân thế sự nghiệp Hồ Hưng Dật, sau đó đã xuất bản sách, nhưng vẫn còn ý kiến phản biện về một số vấn đề quan trọng bậc nhất của lịch sử HHVN vì thấy còn nghịch lý và chưa thuyết phục.
Về thời điểm Nguyên tổ Hồ Hưng Dật sang đến Việt Nam, đây là tồn nghi có nhiều ý kiến khác nhau và khó xác định vì tư liệu gốc quá ít lại bị diễn giải có khi lệch pha. Dù Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) có đề cập là cụ Hồ Hưng Dật sang đời Hậu Hán thời Ngũ Quý nhưng có một số câu hỏi đặt ra rất khó lý giải nên gần như là một nghịch lý. Do đó, các thế hệ sau không ít người, nhà nghiên cứu vẫn thấy không thuyết phục và đặt lại, phản biện, nêu quan niệm, thuyết khác. Trong bài này, chúng tôi nêu ra một số điều bất hợp lý khi nói rằng cụ Hồ Hưng Dật sang thời Hậu Hán Ngũ Quý để chúng ta cùng soi xét.
Theo nhà nghiên cứu sử họ Hồ Việt Nam, Hồ Sỹ Hinh: Trong Gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi, mục Nguyên tổ Hồ Hưng Dật, trang 27-28, đã chỉ ra rằng: Gia phả viết: Nguyên tổ họ Hồ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn dòng dõi nhà Ngu, người tỉnh Triết (Chiết- HBT) Giang, trong thời Ngũ Quý, được Vua Ấn Đế nhà Hậu Hán cử sang làm thái thú tại lộ châu Diễn, vào triều hậu Ngô Vương trong lúc nước nhà có loạn các sứ quân.
Hồ Sỹ Hinh đã vạch rõ các chỗ bịa đặt mà thiếu khôn khéo:
1. Trái cả không gian và thời gian:
- Hán Ẩn Đế chỉ làm vua có 2 năm (949-951), tiếp đó ngôi Hoàng Đế rơi vào tay nhà Hậu Chu. Thời kỳ này Triết (Chiết- HBT) Giang tức Ngô Việt còn ở trong tình trạng chống đối chính quốc. Sử Tàu nói rõ là cho đến năm 978, sau 71 năm tự chủ, Ngô Việt mới chịu thần phục chính quốc, tức nhà Tống mà không phải dùng đến chiến tranh. Như thế, vua Ẩn Đế không thể dùng binh mà đến Ngô Việt để đem Hồ Hưng Dật về rồi sai đi làm thái thú được.
- Suốt thời Ngũ Quý (Ngũ Đại: 907-960/ HBT), nước ta chỉ đuổi người Tàu ra chứ không rước họ vào cai trị. Trừ ra từ năm Quý Mùi (923) đến năm Tân Mão (931). Nước Việt bị trị 8 năm nhưng không bởi Hậu Hán mà là Nam Hán. Chư Hầu ương ngạnh của chính quốc Tàu nằm ngay trên đất Quảng Châu ngày nay.
2. Ngược chính sách thông thường
Nói rằng vua Ẩn Đế thời Hậu Hán cử Thái thú sang coi lộ châu Diễn là chuyện trái lịch sử và phản mọi chính sách của bất cứ triều đại nào vì không có lẽ trong thời Sứ quân (945-967) vua Tàu chỉ phái vỏn vẹn 1 thái thú sang nước ta ở Diễn châu mà thôi; còn các châu khác khắp nước thì sao? Vả lại thời đó nước ta đâu bị đô hộ mà có Thái thú Tàu.
(Chúng tôi, HBT, thấy sử dụng xưng danh “lộ châu Diễn” cũng sai vì Diễn châu là 1 châu giữa 2 châu khác là Ái châu và châu Hoan, cuối nhà Trần mới đổi thành châu Diễn lộ và Hoan châu thành Nghệ An trấn. Theo nghiên cứu mới nhất thì thời Ngô, thời Đinh, Tiền Lê thì châu Diễn đã nhập vào châu Hoan và gọi chung là châu Hoan - HBT).
3. Không khớp với lịch sử
Bản đồ Ngũ Quý của Trung Quốc chứng tỏ sau khi Ngô Quyền đánh bại Nam Hán năm 939, nước nhà độc lập, Sử ký Tàu gọi nước ta là Nam Việt thay vì An Nam Đô hộ phủ như trước.
Như vậy, với một đoạn văn dài này, Hồ Sỹ Hinh đã bác bỏ quan niệm coi Hồ Hưng Dật sang Tĩnh Hải quân thời Hậu Hán Ẩn Đế. Và Hồ Sỹ Hinh đã nêu lên quan niệm Hồ Hưng Dật sang thời 923 -931, trước khi bị Nam Hán xâm lược, chứ không bác bỏ chức thái thú, dù Hồ Sỹ Hinh khi thì đưa ra chức Thứ sử lúc lại nói Tri nhậm tức Tri châu. Hồ Sỹ Hinh vạch ra điểm bất hợp lý, nghịch lý ấy và đưa ra quan niệm hợp lý hơn, như vậy là đúng chứ không phải “vạch mặt...” cái gì ở đây cả (như có người quá bức xúc, nghĩ vậy). Thực ra chúng tôi còn vạch ra, chỉ ra nhiều hơn những điểm bất hợp lý/phi lý như vậy.
An Nam Đô hộ phủ là tên đơn vị hành chính chứ không phải là chế độ cai trị, như ở Tàu cũng có Tứ Xuyên đô hộ phủ và các vùng khác thời nhà Đường cũng dùng chữ “Đô Hộ” như vậy. Tên Nam Việt đã có trong thời Triệu Đà (Lược sử 1, tr.511).
Hồ Minh Hiệu rất tâm huyết với Hồ Sỹ Hinh: rằng rất khâm phục cụ Hồ Sỹ Hinh, một con người vô cùng sâu sắc, nhìn thấu đất trời nhân tình thế thái…. Cụ là người có nhận định về sử họ Hồ thời Hồ Hưng Dật, nguyên văn như sau: “Gia phả bị thất truyền, sử thì nói về Hồ Hưng Dật rất ít, tổng hợp và gạn lọc chỉ được mấy dòng sau đây: Trạng nguyên Hồ Hưng Dật người Chiết Giang, dòng dõi nhà Ngu, sang nước ta từ thời Ngũ Quý, làm quan Tri nhậm tại Châu Diễn, (. chấm ở đây mới đúng - HBT) lúc nước nhà trong thời 12 sứ quân. (, phẩy mới đúng - HBT), Ông lập ấp ở các vùng Tiên sinh và Bào Đột (vì quan niệm của Hồ Sỹ Hinh là cụ Hồ Hưng Dật sang Việt Nam xưa vào năm 923-936- HBT). Họ Hồ bị kỳ thị hoặc căm thù tùy triều đại, lý lịch Hồ Hưng Dật bị cắt xén gần hết, chỉ sót lại vài dòng chữ vắn tắt kể trên, trộn lẫn huyền sử, đã tạo nên những sự kiện chập chờn, mờ ảo. Nhưng lại là những di chỉ uyên nguyên và thiêng liêng bất diệt, tồn tại với hồn thiêng đất nước. Đó cũng là những chứng tích để con cháu nhận dạng ra ông, nhờ vào sử Trung Hoa và ngay cả sử Việt, cộng thêm ánh sáng của khoa tân bác cổ chúng ta sẽ thấy được công đức của ông”! Chúng ta là hậu sinh khả úy thì phải làm tất cả những gì có thể để trả lại sự công bằng, phẩm giá cao thượng của Đức Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, công lao, thân thế, sự nghiệp của Cụ. Trạng nguyên Hồ Hưng Dật còn để lại cho đất Việt sự nghiệp đồ sộ (chữ này hơi quá chăng - HBT), như các thế hệ hậu duệ của cụ những anh hùng hào kiệt tầm cỡ không những cho Tổ quốc, mà của cả nhân loại. Chúng ta hãy nghiêm túc đào sâu, suy nghĩ về điều đó (HMH).
HBT: Nếu ghi: Trạng nguyên Hồ Hưng Dật người Chiết Giang, dòng dõi nhà Ngu, sang nước ta từ thời Ngũ Quý, làm quan Tri nhậm tại châu Diễn, lúc nước nhà trong thời 12 sứ quân. Ông lập ấp ở các vùng Tiên sinh và Bào Đột, thì Hồ Hưng Dật sang thời loạn 12 sứ quân (là trái với quan niệm của Hồ Sỹ Hinh là cụ Hồ Hưng Đật sang VN xưa vào năm 923-937). Nên phải ghi là: Trạng nguyên Hồ Hưng Dật người Chiết Giang, dòng dõi nhà Ngu, sang nước ta từ thời Ngũ Quý, làm quan Tri nhậm tại châu Diễn. Lúc nước nhà trong thời 12 sứ quân, ông lập ấp ở các vùng Tiên sinh và Bào Đột, mới đúng.
Hàng quan đầu châu xưa hầu như lịch sử quên hết, không ghi lại trong sử quốc gia, chỉ trừ trường hợp đặc biệt. Hồ Hưng Dật có tên trong sử vì có Hồ Quý Ly (ĐVSKTT nhân nói về Hồ Quý Ly mà nhắc tới Hồ Hưng Dật) và vì cụ là tướng nhà Đinh, quen Đinh Bộ Lĩnh. Còn dân ta nhớ và thờ chủ yếu vì mở mang kinh tế trang trại và quan trọng nhất là có đức với dân... Một số quan đầu châu tham gia sử quán mới có tên trong sử. Đừng hy vọng Hồ Hưng Dật có nhiều thông tin trong quốc sử.
Chúng ta sẽ bàn luận sâu vào những bất hợp lý trong các sử liệu sau đây:
1. Vấn đề từ thời nhà Ngô không còn xưng danh châu Diễn sao lại có Thái thú (lộ) châu Diễn Hồ Hưng Dật?
Khi nào là châu Diễn khi nào là Hoan châu (hay còn gọi là châu Hoan)? Tại sao là Thái thú châu Diễn chứ không phải Thái thú châu Hoan?
Từ nhà Ngô (939-958) là Cửu Đức (Hà Tĩnh), châu Hoan (Nghệ An), Nhà Đinh, nhà (Tiền) Lê gọi là châu Hoan. Nói cụ Hồ Hưng Dật sang thời Hậu Hán mà là Thái thú châu Diễn là có vấn đề!
ĐVSKTT cho rằng Hồ Hưng Dật sang nước ta thời Hậu Hán Ẩn đế, rồi Hồ Tông thế phả (HTTP) còn nói do vua Hậu Ngô phong chức thì sao lại có chức danh Thái thú châu Diễn? Chúng tôi nghĩ rằng Hồ Hưng Dật sang trước khi Ngô Quyền xưng Vương, thời Nam Hán không phải là thời Hậu Hán năm 947-950.
Vì sao? Vì thời nhà Ngô không còn xưng danh châu Diễn nữa.
Sở dĩ xác định như vậy là vì trước hết căn cứ vào tên gọi châu Hoan hay Diễn châu ở thời kỳ nào. Trước Ngô Vương gọi là châu Diễn (Nghệ An) từ Ngô Vương gọi là Cửu Đức (gọi chung cho vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh nay) và từ nhà Đinh… cũng gọi là châu Hoan (cho cả vùng Hà Tĩnh).
Chứng cứ:
Năm 598 có tên gọi là châu Hoan. (Năm 627 đổi Đức châu thành châu Hoan, châu Hoan cũ thì đổi thành châu Diễn- HBT).
Hiện nay tất cả các tài liệu, kể cả hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 990 năm xưng danh Nghệ An đều viết “Thời Ngô - Đinh, nhà Tiền Lê gọi là châu Hoan”; hay chính xác hơn theo Mộc bản triều Nguyễn thì nhà Ngô là Cửu Đức chung cho xứ Nghệ, nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Hoan (chung cả cả Nghệ An và Hà Tĩnh- HBT).
Thời nhà Đường niên hiệu Vũ Đức, chia quận Nhật Nam thành châu Nam Đức, châu Lạo, châu Minh và châu Hoan. Năm Trinh Quán nguyên niên đổi châu Đức lại làm châu Hoan, còn châu Hoan cũ thì đổi làm châu Diễn. Năm thứ 16 bỏ châu Diễn hợp vào châu Hoan.
Sau năm 627 đến trước thời Ngô Vương (Tiền Ngô Vương) là châu Diễn. Từ thời Ngô Vương là châu Hoan.
Xem cụ thể:
- Về lịch sử tên gọi tỉnh Nghệ An, từ thời Hùng Vương lập nước, Nghệ An thuộc đất Việt Thường, nhà Hán là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân, nhà Ngô là Cửu Đức, nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Hoan, lúc này châu Hoan thống lĩnh 4 huyện là: Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường và Hoài Hoan. Đây chính là Mộc bản sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục khắc về lịch sử tên gọi vùng đất Nghệ An từ thời Hùng Vương dựng nước đến thời Lê.
- Tại Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2, mặt khắc 4, khắc về việc vua Lý Thái tổ cho đổi châu Hoan làm Trại. Đến thời vua Lý Thái Tông năm Thiên Thành thứ 3 (1030), đổi châu Hoan là Nghệ An. Tên gọi Nghệ An bắt đầu từ đây. Đến tháng 11 năm Tân Tỵ (1041) vua Lý Thái Tông cử Uy Minh hầu Lý Nhật Quang làm Tri châu Nghệ An.
- Châu Hoan (Nghệ - Tĩnh) là địa danh trước đời nhà Lý. Năm 598 có tên gọi là châu Hoan. Năm 627 đổi châu Đức thành châu Hoan, châu Hoan cũ thì đổi thành châu Diễn. Thời Đinh, nhà Tiền Lê gọi là châu Hoan.
Trước Ngô Vương: châu Hoan (Tây Nghệ An và bắc Hà Tĩnh nay) | Trước Ngô Vương: Châu Diễn (bắc Nghệ An nay) | Thời Ngô (châu Diễn cũ gọi là Cửu Châu) | Đinh hay Ngô Đinh - Tiền Lê (châu Hoan cho cả vùng Nghệ An và Hà Tĩnh. Phía Nam Hà Tĩnh là châu Đường Lâm) |
Năm 1030, Nghệ An gọi là châu Nghệ An (thời nhà Lý trước đó là châu Trại Nghệ An) mà châu Diễn đứng riêng làm một châu. Như vậy chứng tỏ khi nói cụ Hồ Hưng Dật sang châu Diễn là trước thời Ngô - Đinh, vì sau thời Ngô Quyền là địa danh châu Hoan (tức thời nhà Đinh). Từ trước tới nay một số tài liệu viết thời Ngô Vương cũng là châu Diễn có lẽ là nhầm lẫn.
Trong thời kỳ độc lập tự chủ, nhà Ngô, nhà Đinh và nhà Tiền Lê đều gọi là châu Hoan (Wiki). Vua Lý Thái tổ cho đổi châu Hoan làm Trại. Đến thời vua Lý Thái Tông năm Thiên Thành thứ 3 (1030), đổi châu Hoan là Nghệ An.
Nếu vậy, sách Họ Hồ Việt Nam - Cội nguồn và phát triển (HHVNCN&PT) (tr.21, từ dòng 9 trên xuống) viết rằng, “Từ khi nước ta giành độc lập tự chủ, Diễn châu được thay đổi tên gọi nhiều lần. Dưới các Vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê vẫn gọi Diễn châu”, là không đúng- HBT. “Nhà Lý buổi đầu gọi châu Diễn là trại, về sau gọi là châu”,
Không phải “Dưới các Vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê vẫn gọi Diễn châu” mà “Thời Ngô - Đinh, nhà Tiền Lê gọi là châu Hoan” mới đúng.
(Mộc bản triều Nguyễn cho biết: Xứ Nghệ xa xưa (Nghệ Tĩnh- HBT) gọi là Hoài Hoan, rồi châu Ái, châu Hoan (Năm Quảng Đức thứ 2, chia châu Hoan c đặt quận Long Trì thuộc châu Diễn, lại gọi là quận Diễn Thủy. Nhà Đinh, nhà Lê gọi là châu Hoan”. Lần thứ 3 xứ Nghệ có tên - châu Hoan.
Năm 1010, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lý Thái tổ cho đổi “Hoan châu” là “Trại”. “Trại” ở đây là gọi vùng đất xa kinh đô, còn về mặt hành chính vẫn là cấp hành chính trực thuộc trung ương. Đến năm Long Khánh thứ 3 (1374) dưới triều vua Trần Duệ Tông, đổi châu Diễn là “Diễn châu lộ”; chia châu Hoan là bốn lộ: Nhật Nam và Nghệ An Nam, Nghệ An Bắc, Nghệ An Trung cùng gọi là “Nghệ An Phủ” Năm Quang Thái thứ 10, (1399) đời vua Trần Thuận Tông, nhà vua cho đổi Nghệ An làm “Lâm An trấn”, Diễn châu làm Vọng An trấn. Đời Hồ Hán Thương, năm Khai Đại 1 (1403) cho đổi trấn Diễn châu làm phủ Linh Nguyên, cùng với Thanh Hóa, Cửu chân, Ái châu gọi là Tứ Phụ.
Vậy có thể Hồ Hưng Dật sang làm Thái thú châu Diễn thì là vào thời Tiền Ngô Vương. Không có chỗ nào nói Hồ Hưng Dật sang làm Thái thú châu Hoan cả! Chỉ có Trấn thủ quan châu Hoan Hồ Hưng Dật thôi. Và cũng chưa bao giờ trong lịch sử có tên châu Hoan Diễn như có người suy luận nhầm (từ câu đối: “Hoan Diễn do tồn ức vạn niên”).
Tóm lại cần chú ý:
i- Châu Diễn là xưng danh Nghệ An từ năm 627- 938.
ii- Thời nhà Ngô không còn xưng danh châu Diễn, mà có xưng danh Cửu Đức chỉ Hà Tĩnh và Nghệ An; cũng có tài liệu gọi là châu Hoan.
iii- Đến Nhà Đinh và Tiền Lê gọi chung cả Nghệ An và Hà Tĩnh là châu Hoan. Thời nhà Ngô, Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê mà dùng danh xưng châu Diễn cho Nghệ An là sai.
iv- Còn sang thời Nhà Lý hay Nhà Hồ có lúc trở lại xưng danh Diễn châu là chuyện khác, ta không bàn ở đây! Đó là chưa nói châu Diễn là một lộ khác với Diễn Châu là một lỵ sở (một huyện).
Có sự nhầm lẫn tên gọi khác nhau về Nghệ An là do không nghiên cứu kỹ, nhớ đại khái, các tài liệu cũ lại ghi chép khác nhau. Dứt khoát là từ Ngô Vương về sau đến Nhà Tiền Lê không còn tên gọi châu Diễn mà gọi chung Nghệ Tĩnh là châu Hoan (hoặc thời Ngô là Cửu Đức - xưng danh này ít biết và ít thấy nhắc tới), nhưng cũng không phải châu Hoan Diễn.
Thế mà sách HHVNCN&PT (2019), tr.21, viết rằng “Từ khi nước nhà dành độc lập tự chủ, Diễn châu được thay đổi tên gọi nhiều lần. Dưới các vương triều Ngô, Đinh, Tiền-Lê vẫn gọi là châu Diễn” là không đúng.
THỜI NGÔ - ĐINH- LÊ DỨT KHOÁT KHÔNG CÒN CHÂU DIỄN. ĐVSKTT mà nói Hồ Hưng Dật sang làm Thái thú CHÂU DIỄN CŨNG CẦN PHẢI XEM LẠI. Châu Diễn chỉ là từ 627- 938, và sau này là lộ/trấn châu Diễn từ thời Lý... KHÔNG NÊN NHẦM VỚI DIỄN CHÂU SAU NÀY. Nói Hồ Hưng Dật sang làm Thái thú lộ châu Diễn cũng sai. Nhận thức càng sâu càng khó thay đổi! Chỉ có điều đa số tài liệu mới nhất đều nói thời Ngô là Cửu Đức, có một hai tài liệu còn ghi là châu Hoan từ thời Ngô – Đinh – Lê (châu Diễn cũ đã nhập vào châu Hoan).
Chúng ta nên đọc kỹ lại các bài nghiên cứu mới nhất về xưng danh châu Diễn, châu Hoan, Nghệ An nhân kỷ niệm 990 năm xưng danh Nghệ An. Những tài liệu mới này trên bình diện khoa học nói chung là có giá trị hơn tài liệu cũ xưa nay.
Điều cần nhấn mạnh là đừng hiểu sai (châu Diễn) khi diễn giải này cũng liên quan tới nghịch lý (Thái thú châu Diễn sang thời Hậu Hán?) cho rằng, Hồ Hưng Dật sang (Tĩnh Hải quân) đời Hậu Hán (Ẩn đế) làm Thái thú châu Diễn là không đúng, phi lịch sử. Chúng ta bàn tiếp. Sai từ ngữ, xưng danh này có thể là sai về thực chất về tiến trình lịch sử của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật?
2. Thời Hậu Ngô và vua Hậu Ngô nào phong mà còn chức Thái thú?
Học vị Trạng nguyên mà nói là do đời Hậu Hán phong thì không có lý vì đời vua này chỉ tồn tại 3 năm và 2 đời vua không đủ thời gian để tổ chức thi lấy trạng nguyên. Trong khi đó Nam Hán tồn tại khoảng 72 năm, tổ chức 47 kỳ thi, lấy được 24 trạng nguyên.
Còn chức Thái thú của nguyên tổ Hồ Hưng Dật không thể do vua Hậu Hán tấn phong vì Hậu Hán không liên quan đến Việt Nam lúc đó.
Còn vua hậu Ngô phong ư? Tại sao không phong thứ sử hay trấn thủ quan mà là thái thú? Không có tài liệu nào nói hậu Ngô Vương cụ thể nào phong (xem Lịch sử loạn 12 sứ quân). Và với tính cách của Hồ Hưng Dật thì không thể cộng tác với chính quyền hậu Ngô Vương lo tranh dành quyền lực, loạn ly từ thời Dương Tam Kha - Dương Bình Vương (cướp ngôi trị vì 944-950), hay Ngô Xương Ngập (Thiên Vương Sách) trị vì 951-954, Ngô Xương Văn (Nam Tân Vương), trị vì 950-965 cũng vậy…
Mà nếu nói rằng Hồ Hưng Dật vì là nho thần nên vua hậu Ngô phong thái thú, thì xin nhớ rằng nhà Lý - Trần vẫn lấy Phật giáo làm quốc giáo. Nhà Hồ mới bắt đầu trọng Nho gia. Thời Ngô có trọng nho thần chưa hay đó chỉ là suy đoán... của thời thế kỷ 17? Thực ra ĐVSKTT chỉ nói Hồ Hưng Dật sang làm thái thú châu Diễn, tài liệu nào nói Hồ Hưng Dật là trạng nguyên, thậm chí nói thi trạng nguyên thời Ngũ Quý?
Ông Hồ Hưng Dật thi trạng nguyên là theo truyền thống để làm quan nhưng hầu như ông không thích làm quan, không thích chiến trận, khi ông tâm sự không muốn nhân dân đầu rơi máu đổ (theo Hồ Bá Hiền).
Cụ chân thành nói rõ chính kiến: “Người xưa có câu: “Một tướng thành công hàng vạn xương cốt khô héo”. Kinh Thư còn ghi: “Lửa viêm Côn cương, ngọc thạch câu phần” tức lửa bốc cháy núi Côn cương, ngọc đá đều bị đốt cháy cả. Tôi luôn luôn nhận rõ dân là gốc của mọi thời đại, tôi chỉ muốn vạn đại vi dân (tức muôn đời vì dân), đó là điều tôi muốn dặn lại con cháu”.
Và khi Đinh Bộ Lĩnh thăm dò mời tham gia làm sứ quân dẹp loạn thì ông thưa “Hồ Hưng Dật vạn đại vi dân” (muốn suốt đời làm dân), làm quan như là bất đắc dĩ dù khi đã làm thì ông làm tốt vai của mình. Nhân cách ấy mà nhận Thái thú từ vua Hậu Ngô hay sao? Có sử gia xưa họ Ngô còn có ý chê trách là tại sao Hồ Hưng Dật không ủng hộ vua hậu Ngô mà lại ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh đó sao?
Hơn nữa, không có lẽ Hồ Hưng Dật lại từ nơi loạn này chạy lại sang nơi loạn khác lập nghiệp? hay tránh bị đồng hóa? Phải chăng ông Hồ Hưng Dật nhận chức Thái thú thời kỳ loạn này từ vua Ngô đang tranh chấp nhau quyền thế trong nội tộc, tạo thêm loạn quân khắp nơi, thêm đau khổ cho nhân dân?
Đinh Công Trứ là vị quan thứ sử đầu tiên của Việt Nam. Năm 931, sau khi cùng Dương Đình Nghệ đem quân ra quét sạch quân Nam Hán, tái lập nền độc lập và tự chủ, Đinh Công Trứ được cử làm thứ sử Hoan Châu. Khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, tự xưng là Ngô Vương, Đinh Công Trứ tiếp tục được phong trấn thủ châu Hoan. Tại sao Hồ Hưng Dật lại là thái thú?
Chúng ta không thấy có Thái thú châu Hoan Hồ Hưng Dật mà chỉ có Thái thú châu Diễn Hồ Hưng Dật, nghĩa là có thể chỉ là trước thời Ngô Quyền xưng Vương, như nói ở trên!
3. Tại sao có mối quan hệ giữa Đinh Công Trứ, Đinh Bộ Lĩnh - Đinh
Tiên Hoàng và Hồ Hưng Dật? Hay tại sao Đinh Bộ Lĩnh lại tham vấn Tiên sinh Hồ Hưng Dật?
Chúng tôi đã có bài nghiên cứu riêng, ở đây chỉ nêu tóm tắt.
Trong 267 danh tướng nhà Đinh, về Hồ Hưng Dật có chép như sau: “Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, đỗ Trạng nguyên thời Hậu Hán. Hồ Hưng Dật đã sang Việt Nam sau khi đỗ Trạng nguyên đúng thời Thập nhị sứ quân và sinh sống tại hương Bào Đột, ông kết bạn với Đinh Công Trứ thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh dấy quân dẹp loạn 12 sứ quân, có đến gặp ông để tham vấn ý kiến. Hồ Hưng Dật góp ý với Đinh Bộ Lĩnh về kế sách dẹp loạn 12 sứ quân. Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi đã phong cho ông chức Trấn thủ Hoan châu (Tư liệu lịch sử ở Đình Tân Phúc, xã Quỳ Lăng, Yên Thành, Nghệ An).
Nếu cho rằng: “Hồ Hưng Dật đã sang Việt Nam sau khi đỗ Trạng nguyên đúng thời Thập nhị sứ quân và sinh sống tại hương Bào Đột, ông kết bạn với Đinh Công Trứ thân sinh Đinh Bộ Lĩnh. Khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, có đến gặp ông để tham vấn ý kiến”, thì phủ nhận ông Hồ Hưng Dật làm quan thái thú ở châu Diễn.
Đáng chú ý nữa là trong danh sách 12 sứ quân tức là 12 thứ sử của nhà Ngô, trước hết có: (1) Ngô Nhật Khánh: Thứ sử châu Hoan (Nghệ Tĩnh chứ không phải chỉ Hà Tĩnh - HBT), năm 965-967 xưng là An Vương, (2) Ngô Xương Xí: Thứ sử châu Ái (Thanh Hóa nay)… Trước năm 951 thì Đinh Bộ Lĩnh làm thứ sử châu Hoan. Trong bài Đinh Bộ Lĩnh loạn sứ quân từ sử liệu đến sử thật đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 1, năm 2012, tác giả Trần Trọng Dương, có nói hai chỗ về có lúc Đinh Bộ Lĩnh và con Đinh Liễn nhiếp châu Hoan (nơi của Hồ Hưng Dật - HBT) và từ đây đánh quân Lã Xứ Bình và quân làm loạn…
Và nếu Hồ Hưng Dật làm bạn với Đinh Công Trứ thì càng mâu thuẫn, phi thực tế vì Đinh Công Trứ mất trước năm 940, không thể cho rằng Ngài sang thời đúng thời Thập nhị sứ quân (944-968) sau Ngô Quyền xưng Vương (cụ thể là sang năm 947-950).
Không có mối quan hệ từ trước giữa Đinh Công Trứ, Đinh Bộ Lĩnh và Hồ Hưng Dật từ khi Đinh Công Trứ làm Thứ sử châu Hoan và Hồ Hưng Dật là Thái thú châu Diễn thì khó mà có quan hệ của Đinh Bộ Lĩnh với Hồ Hưng Dật sau này, xin tư vấn ở ông. Đinh Bộ Lĩnh đã từng thay cha làm Thứ sử châu Hoan nên càng quen biết Hồ Hưng Dật hơn thì về sau mới có sự tư vấn của Hồ Hưng Dật và Hồ Hưng Dật làm Trấn thủ quan thời nhà Đinh…
Cần nói thêm là từ năm 981 đến 986 Lê Hoàn kháng chiến và chiến thắng quân Tống xâm lược. Nếu Hồ Hưng Dật sang năm 950 lúc 20 tuổi, thì lúc kháng chiến chống quân Tống, Hồ Hưng Dật khoảng 51-56, tức chưa đến 60 tuổi mà sao không thấy sử sách nói gì về vai trò của Trấn thủ quan Hồ Hưng Dật, ông là một tướng công nhà Đinh hay một chủ trại có thế lực kia mà. Còn nếu Cụ sang khoảng 923-937 thì khi quân Tống xâm lược Cụ đã 70 - 80 tuổi rồi. Trong khi đó Hồ Quốc Toản có viết cụ Hồ Hưng Dật sống đến sau năm 1000, khoảng 70-80 tuổi (HHVNCN&PT). Đó là một câu hỏi nghi vấn cần trả lời khi cho rằng cụ Hồ Hưng Dật sang thời Hậu Hán Ẩn đế?
Trong khi đó phả 6 họ Hồ Phú Nghĩa (trang 5) ghi là Hồ Hưng Dật quê Chiết Giang sang làm quan châu Diễn vào cuối thời nhà Đường, năm 907; còn sách Lịch sử Mã Thành (trang 8) thì ghi sang thời hậu Đường 923-938…nói chung là đầu thế kỷ thứ 10.
4. Tại sao Hồ Hưng Dật sang năm 950 mà đến 968 (gần 20 năm) hay tính đến 980 (30 năm) thời Nhà Đinh đã có con là Hồ Minh và cháu là Hồ Thông mà Hồ Thông cùng với Hồ Hưng Dật là tướng lớn của Nhà Đinh?
Một lý do nữa làm rõ có thể Hồ Hưng Dật sang trước thời Ngô Quyền xưng Vương chứ không phải thời Hậu Hán (950) còn là liên quan đến hậu duệ và các thế thứ sau này.
Chúng ta thấy Hồ Thông con Hồ Minh (quê Chương Mỹ - Hà Tây cũ) có thể là cháu nội của Cụ, hai vị này ở thời họ Đinh. Hồ Thông tham gia dẹp loạn được nhà Đinh phong chức quan rất to. Sao nếu cụ Hồ Hưng Dật sang năm 950 khi kết thúc là năm 968, khoảng hơn 18 năm (hay 30 năm) sao lại qua hai đời đã trưởng thành được (khoảng 50 năm mới đúng). Nếu Hồ Hưng Dật sang Việt Nam trong thời điểm 947-950, mới cách 18-21 năm liệu có hợp lý không?
Chúng ta biết rằng đời thứ ba của họ Khúc là Khúc Thừa Mỹ (917-930) và tiếp đó Dương Đình Nghệ (931-937) như nói trên (thuộc Tĩnh Hải quân), chứng tỏ cụ Hồ Hưng Dật sang vào thời kỳ này (trước năm 937, sau 923, năm 924 hay 924-930 (lúc trên dưới 20 tuổi) là hợp lý nhất chăng.
Hơn nữa, khi xác định Hồ Hưng Dật sang thời Hậu Hán (947-950) thì hậu duệ 10 đời thất phả là bỏ quên Hồ Minh (sinh ra Hồ Thông) và Hồ Thông (một tướng lớn của nhà Đinh), bỏ sót cả Hồ Khương (sinh ra Hồ Cưỡng) và Hồ Cưỡng phò mã (chồng của công chúa Lý Kiều Anh)… Quan niệm Hồ Hưng Dật sang thời Hậu Hán thì chỉ thấy hậu duệ họ Hồ Hưng Dật từ thời Tiền Lê… (Xem sách: Hồ Quốc Toản chủ biên, HHVNCN&PT, tr.74, hay Một hướng tiếp cận lịch sử họ Hồ Việt Nam (MHTCLSHHVN), tr.184, với xác nhận của Hồ Bá Hiền).
Ngược lại, nếu xem xét việc Hồ Hưng Dật sang trước tiền Ngô Vương thì sẽ khắc phục được nhược điểm khó giải thích này.
5. Đánh giá công lao Hồ Hưng Dật như thế nào khi cho rằng ông chỉ làm quan trong thời gian ngắn và sớm từ quan về làm trại chủ?
Trước tiên, đánh giá khái quát công lao, sự nghiệp của Đức Nguyên tổ Hồ Hưng Dật.
Trong cuộc đời của mình, Nguyên tổ Hồ Hưng Dật đã thực hiện các nhiệm vụ của một quan chức trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Có thể Ngài đã thực thi chức trách trên cả hai lĩnh vực: hành chính và quân sự. Sau khi từ quan, Ngài về mở mang đất đai, lập thành trang trại, cùng với người dân địa phương phát triển kinh tế nông - thương nghiệp. Và tất nhiên, việc làm ý nghĩa hơn cả, quan trọng hơn cả là chăm lo cho họ tộc, duy trì dòng tộc. Qua nhiều nguồn tư liệu để lại cho thấy Nguyên tổ Hồ Hưng Dật là người có tâm, có tài và rất bản lĩnh.
Theo Hồ Bá Hiền: Khi các thế lực cát cứ tranh giành, xâu xé nhau, có người đã thăm dò Ngài: “Trong châu Diễn, tôi nhận thấy tôn ông được mọi người tin yêu mến phục, sao dịp này tôn ông không đứng ra cứu dân giúp đời một phen?”.
Đức Nguyên tổ Hồ Hưng Dật có công lớn giữ yên bờ cõi vùng “phên dậu” chiến lược rộng lớn, biên giới, bờ biển kéo dài phía cực nam Lạc Việt thời đó, không bị xâm lấn, nổi loạn, kể cả khi có loạn 12 sứ quân phía Bắc. Trật tự an ninh quốc phòng, trăm họ bình yên. Sử có ghi rằng: “Ngô Quyền lên ngôi (939-944), ông từng khen Hồ Hưng Dật vì đã giữ yên vùng trọng yếu nơi ông trị vì...”. Như vậy chứng tỏ ông Thái thú có công với vùng Nghệ Tĩnh xưa trước nhà Ngô, nhà Ngô và cả nhà Đinh. Điều đó chứng tỏ tài năng văn võ song toàn, đức độ và uy tín của Ngài bao trùm khắp vùng mới có thể thu phục lòng người và triều đình kính nể. Ông Ngô Đức Tiến, nhà nghiên cứu lịch sử Nghệ An, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo huyện Yên Thành có nhận xét là hiếm có một ông tổ họ nào như Trạng nguyên Thái thú, Trấn thủ quan, Tướng công Hồ Hưng Dật được nhân dân trong vùng kính trọng và thờ phụng nhiều, lâu dài từ xưa đến nay như vậy.
Công lao là cả làm quan và làm trại chủ, mà làm trại chủ là chính. Nhưng hình như Ban LLHHVN các khóa và không ít người không làm rõ công lao của Hồ Hưng Dật với nhà Đinh và công lao, dấu ấn mà cụ Hồ Hưng Dật đã ghi tại đất cổ Quỳ Lăng, Kẻ Sừng, Kẻ Cuồi…
Do vậy cho rằng cụ sang thời Hậu Hán là kém thuyết phục, dù ĐVSKTT ghi như vậy. Nhưng lầm lẫn không khi ghi là Thái thú châu Diễn?
Cần chú ý: Tĩnh Hải quân sang thời Ngô Vương không còn xưng danh châu Diễn cho vùng Bắc Nghệ như cũ. Trạng nguyên Hồ Hưng Dật sang trước thời tiền Ngô Vương và có chức vụ Thái thú (hay thứ sử) trước thời tiền Ngô Vương, thậm chí trước cả thời họ Dương tiết độ sứ. Chức của Hồ Hưng Dật nếu là vua Việt Nam phong thì là thứ sử chứ không phải thái thú. Còn ghi Hồ Hưng Dật - Thái thú châu Diễn gọi vậy hoặc không phải vua Việt Nam phong, hoặc vì Hồ Hưng Dật không phải người trong nước nên gọi theo thói quen, hoặc sử gia gán ghép cho Hồ Hưng Dật vì không thiện cảm với ông, thậm chí “ác ý”… khi ông không ủng hộ hậu Ngô Vương...? Chúng ta xử lý sao cho khoa học, có lý có tình, đừng thiên về cách nhìn theo cảm xúc cá nhân. Hồ Hưng Dật sang vào thời nào, làm chức danh gì. Một là làm quan. Hai là làm trại chủ. Và trại chủ là có vai trò rất lớn so với sự phát triển kinh tế của quê hương làng xóm, không nên bỏ qua vai trò trại chủ và đề cao quá chức quan không hợp với triết lý vạn đại vi dân của Ngài.
6. Về Hồ Hưng Dật vẫn còn là một điểm mờ, chưa thật rõ ràng, trái ngược, vênh nhau giữa các văn bản hay trong một văn bản. Quốc sử xưa cũng chỉ nó thoáng qua… Đại Việt - Đại Hán - Nam Hán?
Về ĐVSKTT. Cuốn sử này viết theo kiểu ký nên có xen huyền sử vào ngôn ngữ sử học, nên dù bộ ĐVSKTT còn lại đến ngày nay và là một bộ quốc sử lớn, có giá trị, nhưng vẫn có những hạn chế mà các nhà sử học sau này, nhất là ngày nay đã nêu ra. Với nhân vật Hồ Hưng Dật thì bộ sách này cũng chỉ nói thoáng qua nhân dịp nói về Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương.
Theo ĐVSKTT , tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr.196-197 (bản in Nội các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), do Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính) phần viết về Thiếu đế, phụ: Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương thì Hồ Quý Ly tự suy tôn “tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, đời Hậu Hán thời Ngũ Quý sang làm Thái thú châu Diễn. Sau đó làm nhà (có bản dịch là: lưu lại - HBT) ở hương Bào Đột châu này rồi là trại chủ”).
Theo Hồ Minh Châu, điều đó nói lên rằng sẽ không có sử liệu nào nói Hồ Hưng Dật sang năm nào, hoàn cảnh nào. Tất cả chỉ là suy luận của người này người kia mà thôi. Ngay cả trong quyển sử Lê Văn Hưu viết đã bị mất trước thế kỷ 17, Ngô Sĩ Liên chỉ trích có 29 đoạn, 29 đoạn đó không có một manh mối nào viết về cụ Hồ Hưng Dật thế kỷ thứ 10, ngoài một câu trích dẫn như trên. Có thể, sau khi họ Khúc bị Nam Hán đánh bại, Trạng nguyên Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái thú Châu Diễn thời gian rất ngắn, và từ quan trước khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán (924-938).
Các bản phả sau này hay sách viết (tam sao thất bản) cứ diễn giải thêm, chỉ có điều lại đi xa hay chưa đúng với bản gốc hay thực tế lịch sử.
Bản Hồ gia hợp tộc phả ký - HGHTPK (NXB KHXH, 2021) ghi: “Buổi đầu tiên tổ là Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang bên Trung Quốc, sau thời Hán Ẩn đế, làm thái thú Diễn Châu, nhà ở hương Bào Đột, nay là xã Bào Giang. . .” (tr.18). Còn Hồ Tông thế phả - HGTP (NXB KHXH, 2021) thì “Thuở xưa, tiên tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người Vũ Lâm, Tích Giang, Phúc Kiến của thượng quốc. Đương thời nước Ngô Việt Hậu Hán Ẩn đế thuộc thời Ngũ Đại, nước ta thuộc nội địa. Ông vì là nho thần nên làm thái thú lộ Diễn Châu (trang 4, trong phần lời người dịch, còn ở trang 24 thì ghi Hồ Hưng Dật phụng mệnh sang làm thái thú lộ Diễn Châu), hoặc: “Tương truyền, ông tổ đầu tiên là người Chiết Giang, Bắc quốc là Hồ Hưng Dật, thời hậu Hán Cao tổ thứ 1 thuộc Ngũ Đại (tức là năm 947) đỗ Trạng nguyên, phụng mệnh đến nước ta làm thái thú lộ châu Diễn”, . . . (cuối tr.23 đầu tr.24). HGHTPK cũng viết vậy. Trang 10 sách HHVNCN&PT (bản 2019) không trích câu PHỤNG MỆNH SANG (tr.24) mà trích câu ở trang 21 (HTTP) nhưng trích không chính xác. Nguyên văn: “Ông vì nho thần nên làm thái thú lộ châu Diễn”, còn sách HHVNCN&PT (trang 10) ghi “vì ngài là nho thần nên được cử làm thái thú lộ châu Diễn”. Trang 23, 29 HHVNCN&PT ghi là nhà hậu Ngô trọng dụng/cử Hồ Hưng Dật làm thái thú lộ châu Diễn. Trong khi đó cả ĐVSKTT ghi “sang làm thái thú châu Diễn”. Như vậy làcó nghĩa phương bắc cử sang/phụng mệnh sang như tr.24 HTTP mà chủ biên HQT bỏ qua).
Theo HHVNCN&PT (2020) (trang 23, dòng 1) thì: “Những ý kiến cho rằng nguyên tổ Hồ Hưng Dật được "cử sang" hoặc "phụng mệnh" sang làm Thái thú lộ Diễn Châu là trái với chính sử, chính phả và thực tế lịch sử thời bấy giờ”(?). Khẳng định như vậy là không đúng, vì ngay cả HTTP (tr.24) cũng ghi là… phụng mệnh sang và nhiều khả năng là Hồ Hưng Dật sang trước thời Tiền Ngô vương, thậm chí cuối thời họ Khúc chứ không phải Hậu Ngô, vì như vậy mới phù hợp bối cảnh lịch sử.
Còn HTTP bản cũ/(Thế phả họ Hồ) cũng chỉ ghi: “Ngày xưa… Trạng nguyên Hồ Hưng Dật người Vũ Lâm Chiết Giang, Phúc Kiến của Thượng quốc. Đương thời nước Ngô Việt (có đính chính là Việt Ngô 907-908 - HBT) Hậu Hán Ẩn đế thuộc thời Ngũ Đại, nước ta thuộc nội địa. Ông là Nho thần nên làm Thái thú lộ châu Diễn, sau đó vào thời Sứ quân (có chú thích giai đoạn giữa nhà Ngô và nhà Đinh là 24 năm - HBT) cát cứ chia cắt ông lưu lại ở làng Bào Đột (nay là Bào Giang) thuộc châu này, làm Trại chủ.…”
Theo Khâm Định Việt Sử thông Giám Cương Mục, Quốc sử quán triều Nguyễn, bản điện tử, trang 294: Ông tổ Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang, về đời Ngũ Quý (907-959) sang bên ta, lập ấp tại làng (hương) Bào Đột thuộc Diễn châu… (không có ghi Quỳnh Lưu như sau này có người chú giải).
Người đời sau (tìm hiểu) đã diễn giải xa hơn, có phần sai lạc về chi tiết:
Theo HTTP, thời Ngũ Đại, triều Hậu Hán (947-950) do Lưu Trí Viễn lập nên; đời Hán Ẩn Đế (948- 950), Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, dòng dõi nhà nho thuộc dân Bách Việt ở Chiết Giang giữ chức Thái thú châu Diễn.
Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Hưng Dật chán ngán cảnh quan trường, đưa gia quyến đến hương Bào Đột (vùng đất phía tây huyện Quỳnh Lưu ngày nay) khai hoang lập nghiệp, vui thú ruộng vườn… Cũng theo sách HHVNCN&PT (tr.26) thì năm 967, cụ Hồ Hưng Dật từ quan về làm trại chủ. Nhưng theo lịch sử nhà Đinh thì Đinh Tiên Hoàng phong cho ông làm Trấn thủ quan Hoan châu (chỗ gạch chân là HBT lưu ý diễn giải xa, sai với văn bản).
Đáng chú ý là: khi thì nói sang làm Thái thú, khi thì nói rõ hơn là phụng mệnh sang làm Thái thú (HTTP, năm 2021, tr.24), khi thì nói vì nho thần nên làm Thái thú, hay sau đó cử làm Thái thú… là những luận cứ ngược nhau, không thống nhất. Rồi bản thì nói làm Thái thú trong thời gian ngắn sau loạn 12 sứ quân (967-968), hoặc bản thì ghi loạn 12 sứ quân là 24 năm… Rồi tài liệu cái thì nói lưu lại tại hương Bào Đột, cái thì nói làm nhà ở hương Bào Đột, hay chuyển về hương Bào Đột. Thậm chí có tài liệu còn ghi là Quỳnh Lưu, hay Ngọc Sơn - Quỳnh Lưu… Vậy đâu là bản chính, đâu là “dị bản”? (từ của HQT) đâu là diễn giải quá xa, hay sai? (sẽ trở lại phân tích sau).
Theo Việt Nam Sử lược 1 (tr.85), ĐVSKTT (tr.159) và HGHTPK và hệ thống tư liệu Họ Hồ trong lịch sử (tờ 27, 43), gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi (tr.17, dòng đầu) do cụ Hồ Sỹ Hinh nhà nghiên cứu sử họ (Việt Kiều Mỹ), chép: “Trạng nguyên Hồ Hưng Dật người Chiết Giang, dòng dõi nhà Ngu, sang nước ta từ thời Ngũ Quý (không nói đời nào - HBT), làm quan Tri nhậm tại châu Diễn. Lúc nước nhà trong thời mười hai sứ quân, Ông lập ấp ở các vùng Tiên sinh và Bàu Đột”. Nhận xét của Hồ Sỹ Hinh rất đáng chú ý (HMH).
Ông Ngô Đức Tiến (Nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Yên Thành, nhà nghiên cứu lịch sử Nghệ An) vừa gửi cho chúng tôi ý kiến sau đây: “Gần đây trong một truyện vừa của Chu Trọng Huyến có nhắc đến trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim nói về việc Hồ Hưng Dật chọn hương Bàu Đột làm nơi tụ cư. Tôi đọc lại sách ấy (Việt Nam sử lược) không thấy dòng nào cả về Hồ Hưng Dật xây dựng ở Bàu Đột. Trong thực tế thì lịch sử thời kỳ cụ Hồ Hưng Dật làm Thái thú châu Diễn vẫn còn là khoảng mờ” (NĐT).
Hồ Sỹ Hinh (Gia phả họ Hồ, tr.17) thì viết, họ Hồ trước đây “bị kỳ thị hay bị căm ghét tùy theo triều đại”, nên “lý lịch Hồ Hưng Dật bị cắt xén gần hết còn lại vài dòng, trộn lẫn chính sử với huyền sử những sự kiện chập chờn mờ ảo”… nên rất khó để nghiên cứu về cụ.
Hồ Hưng Dật làm Thái thú châu Diễn mà lại đời Hậu Hán Ẩn đế (năm 950) là một câu hỏi… không dễ trả lời. Nhưng đời Hậu Hán thì sao còn châu Diễn vì đã là châu Hoan (đã đổi tên)…?
Thực sự từ ĐVSKTT có hai vấn đề trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Hưng Dật, đó là việc ông sang Tĩnh Hải quân vào đời Hậu Hán Ngũ Quý và thời điểm cũng như lý do mà ông chuyển về hương Bào Đột, hai vấn đề này đã và đang gây tranh luận kéo dài, khi âm thầm, khi gây gắt. Nếu nói lấy quốc sử là chuẩn mực cao nhất rồi kết luận điều ghi trong ĐVSKTT là đúng, chắc như đinh đóng cột thì đơn giản quá, nhưng không thuyết phục và không có chứng cứ khoa học.
Điều đó và những diễn giải đi xa văn bản ban đầu và thực tế lịch sử cần bàn lại, sâu hơn, liên hệ với nhiều góc nhìn khác.
7. Tại sao có quan niệm khác, rằng Hồ Hưng Dật sang trước Tiền Ngô Vương hay khi Ngô Quyền còn tại vị (939-944), là khác thuyết sang thời Hậu Hán (948-950)?
Chúng tôi đã tìm đọc sách, tài liệu, gia phả, các ghi chép lại và nhận thấy như sau: Hồ Hưng Dật không phải sang thời Hậu Hán vào khoảng thời gian 947-950, mà sang thời Nam Hán. Cũng đã từ lâu, có không ít ý kiến đưa ra thời gian Hồ Hưng Dật sang Việt Nam xưa khác với thuyết 1 nói trên.
Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người thuộc dòng Bách Việt quê Chiết Giang, nước Ngô Việt thuộc Trung Quốc ngày nay (theo Hồ Sỹ Hinh - Gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi). Ông đến Việt Nam vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ X, sinh cơ, lập nghiệp, rồi được cử nhậm chức quan Thái thú châu Diễn (có thể là vào khoảng năm 924).
Theo Hồ tộc phổ 6 chi Phú Nghĩa, (tr.5) chép ông Hồ Hưng Dật tên chữ là Trọng Tuấn, đậu Trạng nguyên, là người tỉnh Chiết Giang cuối đời nhà Đường (907) (có lẽ là Hậu Đường thì mới đúng?. Lịch sử xã Mã Thành, NXB Nghệ An, tr.8 cũng viết rằng có tài liệu ghi như vậy - HBT) sang làm quan Châu Diễn. Đầu tiên ông sang ở thôn Tam Công là thuộc đất tổng Quỳ Trạch, Yên Thành ngày nay, sau nữa làm trạng trại ở hương Bào Đột (không phải nơi gia đình ở - HBT), con cháu nối tiếp nhiều đời ở đó (là vùng Tam Công, chứ không phải Bào Đột - Ngọc Sơn nay theo lô gích trên - HBT). Họ Hồ đất Hoan châu (là chính xác - HBT) đều là con cháu ta cả (LSHHĐTTCCNGTHHVN, 2020, tr.19, xem thêm tr.20).
Ngoài ý kiến cho rằng Hồ Hưng Dật sang khoảng năm 923-937 như nói trên, thì còn có ý kiến là sang lúc Ngô Quyền tại vị. Điều đó chứng tỏ thuyết sang thời Hậu Hán có vấn đề, không thuyết phục.
Có tài liệu (do TS Nguyễn Hữu Tâm, nguyên Giám đốc Thư viện, Viện Sử học cung cấp) như Gia phả thực lục, nghĩa là ghi chép sự thật về Gia phả họ Hồ, viết rằng Hồ Hưng Dật sang “khi vua Nam Hán Lưu Ẩn đang ở ngôi, và vua Ngô Quyền đang trị vì” (939-944- HBT). “Hồ Hưng Dật nho gia được cử sang làm Thái thú lộ (lúc này không gọi là lộ mà là châu - HBT) Diễn.” (MHTCLSHHVN, tr.217). Nhưng xin thưa lúc này không còn xưng danh châu Diễn!
Hồ Hưng Dật (năm 947, Hán Cao tổ) “phụng mệnh đi sứ phương Nam giữ chức Thái thú lộ Diễn châu”, sau đó thời nước ta loạn 12 sứ quân thì Hồ Hưng Dật nhân đó lưu lại làm trại chủ ở làng Bào Đột, xã Bào Giang sau này (theo Hồ gia phả ký (xem phụ lục 7), Hồ Tông thế phả, bản NXB KHXH, 2021, tr.24), hoặc: HTTP - Lời giới thiệu).
Rồi ở trang 216, MHTCLSHHVN, NXB Đại học Quốc gia TP HCM, 2019, theo Nguyễn Hữu Tâm, trong Hồ gia phả ký, mục Hồ gia phả tấn, Hồ Sỹ Thực viết: Tộc họ ta (chỉ Hồ Kha - HBT) ở Ấp Quỳ Trạch, nguyên quán ở làng (hương) Tiên sinh sau di cư đến Hoan Hậu, cư ngụ ở Thổ Đôi.
Tài liệu HGPK, Gia phả thực lục đã làm rõ giả thuyết thứ ba về thời điểm và chức vụ do ai giữ.
Nhưng cũng có mâu thuẫn:
i) Hồ Hưng Dật đi sứ (ngoại giao hay làm việc có định kỳ? - HBT) phương Nam và lúc này VN đã độc lập tại sao Hồ Hưng Dật lại làm quan Thái thú châu Diễn? (lúc này thời Ngô là Hoan châu, hay gọi theo lúc người viết?)
ii) Và vua Nam Hán là Lưu Ẩn đã mất năm 911 (sau Lưu Nham lập ra Nam Hán năm 917- 942) sao lại cùng thời Ngô Quyền tại vị. Hoặc thời Lưu Nham mới là Lưu Ẩn còn Lưu Ẩn mất 911 là Nam Hán Cao tổ như có tài liệu đã viết.
Lúc này Lưu Ẩn là chỉ Lưu Nham (Lưu Nghiễm) mới đúng. Ông này đã củng cố chế độ thi cử làm quan và Nam Hán Lưu Nham, tức Lưu Nghiễm cũng là Lưu Trác (trị vì từ năm 912 đến 942) này liên quan tới việc xâm lược Tĩnh Hải quân (Việt Nam) hồi đó (năm 923 hay 930).
Phải chăng có người đã nhầm Lưu Ẩn với Hán Ẩn đế? (mà nếu Hán Ẩn đế là Lưu Thừa Hựu thì là năm 950 kia mà).
Ở đây ta lại thấy có quan niệm là Hồ Hưng Dật được cử sang làm quan Thái thú châu Diễn? (“Phụng mệnh đi sứ phương Nam làm Thái thú đất châu Diễn” - Hồ gia phả ký - Hồ Sỹ Thực). Đáng chú ý là Thuyết này khác thuyết sang thời Hậu Hán (947-950) và khác quan niệm hậu Ngô Vương phong chức cho cụ Hồ Hưng Dật. Có cần phải giải thích hay bác bỏ thuyết này hay không?
Nhưng điều này cho thấy rõ hơn là chỉ có một khả năng hợp lý nhất là cụ Hồ Hưng Dật sang trước thời Ngô Quyền xưng Vương! Vì vào thời Ngô Quyền nước ta độc lập rồi nên không có chuyện bên phương Bắc cử người sang làm Thái thú hay bên ta phong chức thái thú?
Các mốc thời gian về việc Hồ Hưng Dật sang sang Tĩnh Hải quân:
+ Cụ Hồ Hưng Dật sang khoảng cuối nhà Đường, năm 907 (Phả 6 chi họ Hồ Phú Nghĩa, tr.5).
+ Không có tài liệu gốc nào nói về việc Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền và hậu Ngô Vương nào phong chức Thái thú châu Diễn cho Hồ Hưng Dật. Thời hậu Ngô Vương đang rối bời cũng không thể nói phong chức cho cụ Hồ Hưng Dật, và cũng vì cụ Hồ Hưng Dật không ủng hộ chính quyền hậu Ngô Vương. Còn sau này Đinh Tiên Hoàng phong chức Trấn thủ quan cho cụ Hồ Hưng Dật thì đã rõ.
+ Có thể cụ Hồ Hưng Dật sang sau thời kỳ Khúc Thừa Mỹ bị bắt và có thể làm Thái thú châu Diễn, trấn giữ một vùng đất phên dậu trọng yếu trước họa quấy rối xâm chiếm của quân Chiêm (năm 923 hay 930)?
Có những trường hợp gần tương tự như thế: Chẳng hạn để lung lạc Dương Đình Nghệ, chính “vua Nam Hán là Lưu Cung sai người phong ông làm Thứ sử Ái châu. Nhưng chẳng bao lâu sau, tháng 3 năm 931, Dương Đình Nghệ ra quân từ Ái châu, đánh bại Lý Khắc Chính, đánh đuổi Thứ sử Lý Tiến của Nam Hán” (Xem Việt Nam thời tự chủ của nhà sử học Hồ Bạch Thảo).
+ Cùng một tài liệu (sách Đặng Vũ Phả ký của Đặng Phương Nghi) nhưng lúc thì viết: “Chính vào thời Ngũ Quý này, Ông Hồ Hưng Dật từ Ngô Việt (Chiết Giang) xuống Giao Châu (Nam Việt) vào khoảng cuối Hậu Đường (935-937) trong thời Dương Diên Nghệ” (cách dịch cũ, tức Dương Đình Nghệ- HBT); lúc thì ghi: “Hồ Hưng Dật, thủy tổ họ Hồ ở Việt Nam, đậu trạng nguyên đời vua Hán Ẩn Đế, sinh quán huyện Vũ Tân, tỉnh Triết Giang, được cử sang Việt Nam làm Thái thú châu Diễn thời Hậu Hán”.
Thực tế là cụ Hồ Hưng Dật có thể tự sang hay bị ép sang nhưng cụ đã phụng sự theo ý dân và chính quyền yêu nước Việt Nam xưa, ở lại làm dân Việt Nam vì thế hợp lẽ trời và lòng người... (Xem Hồ Bá Thâm).
Qua phân tích trên, có thể nhận xét tổng quát về Hồ Hưng Dật sang Việt Nam khi nào như sau:
Một là, những bất hợp lý cần làm rõ hơn nữa. Nếu Hồ Hưng Dật sang Việt Nam xưa đời Hậu Hán Sa Đà, (947-950), làm Thái thú châu Diễn là sao. Làm gì còn địa danh châu Diễn. Và hình như có sự nhầm lẫn của người viết sử đời hậu Hán, hậu Hán Ẩn đế (Ngũ đại) với thời, triều đại thời hậu Hán Ẩn đế (Thập quốc) tức Đại Hán hay Nam Hán hậu duệ nhà Hán (cả hai Hán này cùng có vua là họ Lưu). Nếu theo thuyết Hậu Hán thì Hồ Hưng Dật sang đời hậu Hán Sa Đà, 947-950 thì còn bất hợp lý, nghịch lý hơn nữa như đã nêu trên. Không đơn thuần dựa vào ĐVSKTT hay HTPK để khẳng định vì ở Hồ Hưng Dật còn nhiều điểm mờ… dù hậu thế đã cố gắng làm rõ đôi điều hay làm sai lệch điều này điểm nọ khi diễn giải…
Hai là, một số điểm có thể soi sáng thêm về Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, Cụ sinh năm 907 (có tài liệu phả viết cụ sang nước ta năm 907) hay trước năm 907 và học giỏi từ nhỏ (suy luận), Cụ thi đậu Trạng nguyên nước Ngô Việt hoặc Nam Hán trước 923 hay 924. Hồ Hưng Dật có thể sang làm Thái thú châu Diễn khoảng từ năm 923-937 (cùng thời với Đinh Công Trứ - thứ sử châu Hoan), Ngô Quyền - thứ sử châu Ái). Hồ Hưng Dật từ quan ở lại nước Nam sinh cơ lập nghiệp. Cũng có ý kiến cho rằng Hồ Hưng Dật sang Việt Nam vào năm 935-937. Nhưng nhìn chung là sang trước Ngô Quyền xưng Vương, nó hóa giải được nhiều khúc mắc, bất hợp lý và hợp bối cảnh lịch sử cùng các nhân tố liên quan đến ông Hồ Hưng Dật cùng thời thế lúc đó.
Ba là, Hồ Hưng Dật có công lớn với đất nước Việt Nam xưa, dù có khi làm quan nhưng luôn muốn làm dân hay khi đã làm dân! Ông làm trại chủ ở vùng Quỳ Trạch gắn với hương Ngũ Bàu, khu vực Yên Thành nay là chính và tại các vùng đất khai hoang rộng lớn. Thời dẹp loạn 12 sứ quân, Hồ Hưng Dật vừa tư vấn cho Đinh Bộ Lĩnh, vừa giúp nhà Đinh và sau đó được mời làm quan Trấn thủ châu Hoan thời nhà Đinh. Ông và con cháu như Hồ Thông, Hồ Minh đều được Vua Đinh phong chức hàng tướng lĩnh. Khi qua đời ông được dân làng quý mến, tiếc thương và lập đền thờ, thờ cho đến ngày nay. Hồ Hưng Dật có công lớn với đất nước Việt Nam, rất thân dân, muốn mãi là dân!

























